Đọc chuyện nước Vệ nhớ nước Nam
Nước Vệ là một tiểu quốc thời Đông Chu cách đây hơn 2000 năm bên Trung Quốc. Bấy giờ vua nước Vệ là Vệ Ý-công lên ngôi đã 9 năm mà còn mê chơi, chẳng biết chăm lo chỉnh đốn việc chính trị. Vua nước Vệ ngày ngày vẫn mê mẩn một giống vật nuôi ấy là loài chim hạc – một loài chim có dáng hình thanh nhã, tiếng kêu đã hay mà dáng múa cũng khéo. Từ đó người nước Vệ thường đem hạc quý tiến dâng Vệ Ý-công, thành ra trong cung có hẳn hàng trăm con chim hạc. Đã thế Vệ Ý-công còn ban phẩm hàm và cấp lương bổng cho hạc; con nào đẹp, quý thì được ăn lộc quan Đại phu. Mỗi khi Vệ Ý-công đi chơi đâu, lại có mấy cái xe lớn, để cho chim hạc đứng mà đi dàn ở trước, gọi là Hạc tướng quân. Những người nuôi hạc bấy giờ cũng đều được lương thưởng hậu hĩnh.

Gần 2000 năm sau ở phương Nam xa xôi trên đất Đại Việt, một vị danh tướng dòng dõi hoàng tộc là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong lúc thế nước lâm nguy đã soạn ra một bài văn để giáo huấn và khích lệ tướng sĩ. Áng hùng văn bất hủ ấy có tên Dụ chư tì tướng hịch văn, về sau được lưu truyền với tên gọi vắn tắt là Hịch tướng sĩ.
Ở khía cạnh trung quân ái quốc, Hưng Đạo Vương đem câu chuyện của những bậc trung thần nghĩa sĩ đời xưa như là Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng… đưa vào nội dung bài hịch để mà giáo huấn. Còn ở khía cạnh ham chơi sa đọa thì không rõ Hưng Đạo Vương đã hồi tưởng về những nhân vật sự việc nào? Nhưng dễ nhận thấy trong các thú vui dân dã của người Việt ta từ xưa ấy là chọi gà, chọi trâu; rồi tốn kém hơn chút nữa là cờ bạc, tửu sắc… Vì thế viết mà ông răn dạy:
“…Kẻ thì chọi gà cho thích, kẻ thì đánh bạc mua vui. Một khi giặc Mông đến nơi, thì cựa con gà nòi không thể đâm thủng áo giáp của giặc; thuật ở bàn bạc không thể đem làm mưu mẹo ở trong quân…”
Kết quả của cuộc kháng chiến như thế nào thì dân ta ai ai cũng rõ. Nhưng giả sử, nếu không nhờ có sự đồng lòng của quân dân cùng sự chỉ huy, lãnh đạo tài tình của các bậc quân vương thì liệu rằng nước Đại Việt với lực lượng kém hùng hậu có thắng nổi sức mạnh vượt trội của quân thù xâm lược Nguyên Mông.
Còn dân nước Vệ thì sao?
Khi quân Bắc Địch kéo vào xâm phạm bờ cõi nước Vệ thì quân lính chẳng muốn chiến đấu nên bỏ trốn rất nhiều khiến cho Vệ Ý-công buồn bã, sai người bắt về. Những người bỏ trốn oán hờn vua nước Vệ mà bảo rằng:
Chim hạc không đánh được giặc thì là vật vô dụng. Nay chúa công bỏ những người hữu dụng mà nuôi một vật vô dụng thì dân chúng tôi không phục.
Trong lúc lâm nguy, Vệ Ý-công nhận ra lỗi lầm của mình thì đã muộn màng bởi vì bây giờ lòng dân đã không còn theo Vệ Ý-công nữa, thành ra sức chiến đấu tự nhiên rệu rã. Trên đường ra trận, binh lính như đoán được số phận mà truyền nhau bài ca sầu thảm:
“Hạc được ăn lương, dân phải cày; hạc được ngồi xe, dân vác giáo. Quân giặc (mạnh) gớm ghê, (chúng ta) mười phần chết chín! Nay hạc đi đâu, để ta khổ sở!”
Vào giờ phút cam go nhất, tâm thế của một bậc quân vương bỗng trỗi lên trong con người Vệ Ý-công. Ông không oán hờn binh lính và cũng chẳng chịu đầu hàng quân giặc. Vì không có ai lĩnh cờ đại bái để lừa địch nên Vệ Ý-công liều chết giữ cờ, cuối cùng quân Bắc Nhung đã giết và băm thây Vệ Ý-công tan nát ngay tại trận tiền.

Quân Bắc Nhung thừa thắng tiến vào kinh thành nước Vệ mặc sức tàn phá cướp bóc rồi ung dung rút quân trở về. Bấy giờ, quan Đại phu nước Vệ là Hoằng Diễn khi trước phụng mệnh Vệ Ý-công đi sứ nước ngoài; nay trở về thì thấy cảnh tượng điêu tàn mới hay đất nước vừa trải qua binh biến. Hoằng Diễn nghe nói Vệ Ý-công bị giặc giết nơi sa trường nên chịu khó đi tìm thân xác đem về an táng. Trong khi đi đường, trông thấy máu mê xương thịt ngổn ngang đầy đống, cảnh tượng rất là sầu thảm; đến một nơi thấy lá cờ đại bái bị bỏ rơi, Hoằng Diễn mới nói với đám người hầu: “Cờ đại bái ở đây thì chắc là thi thể chúa công ta cũng quanh quẩn gần đây mà thôi.”
Đi được vài bước nữa, Hoằng Diễn nghe có tiếng người rên rỉ nên mới tìm đến xem thì thấy một người nội thị bị gãy chân mà nằm đó. Hoằng Diễn hỏi rằng: “Nhà ngươi có biết chúa công chết ở chỗ nào hay không?” Người nội thị chỉ vào một đống thịt mà bảo rằng: “Đó tức là thi thể chúa công ta đấy!”
Hoằng Diễn trông thấy thi thể Vệ Ý-công đã tan nát ra từng mảnh vụn, chỉ còn mỗi buồng gan là rõ nét; mới khóc òa xót thương rồi sụp lạy hai lạy như lúc Vệ Ý-công còn sống. Hoằng Diễn nói:
“Nay chúa công ta không có người thu táng, âu là đem cái thân ta ra làm áo quan cho chúa công vậy.” Nói xong liền cầm dao mổ bụng ra, lấy tay xách buồng gan của Vệ Ý-công bỏ vào, được một lát sau thì chết! Người nhà theo y lời dặn, đem chôn xác Hoằng Diễn cùng buồng gan Vệ Ý-công ở trong rừng, đợi khi lập được vua mới, tình thế ổn định thì chỉ cho người nhà biết nơi chôn cất mà rước về an táng. Về sau, vua mới là Vệ Văn-công sai người ra đất ấy làm lễ an táng Vệ Ý-công, gia phong cho Hoằng Diễn và dùng con Hoằng Diễn ra làm quan.
Bấy giờ, Tề là một nước lớn có trách nhiệm bảo hộ cho nước Vệ, sau nghe những quan đi sứ về thuật chuyện, vua nước Tề là Tề Hoàn-công khen: “Ông vua vô đạo mà có người bề tôi trung như vậy thì nước Vệ chưa đến nỗi mất.”
Trong Hịch tướng sĩ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không nhắc đích danh câu chuyện của Vệ Ý-công, nhưng cứ theo cách giảng của ông thì y như rằng dáng múa chim hạc không làm mê quân giặc; tiếng hót ấy cũng chẳng làm giặc điếc tai… Lúc ấy thầy trò ta sẽ cùng bị trói. Đau đớn biết chừng nào!