Chuyện CÂU CÁ | #1: Chuyến Câu Bão Táp
Một sớm mùa đông, quê nhà đón tôi bằng cơn mưa phùn cùng một bầu không khí đầy u ám. Đó là một mùa đông đặc biệt, là mùa đông đầu tiên kể từ khi tôi quyết định thôi việc văn phòng để đặt những bước chân chập chững vào con đường phiêu lưu đầy chông gai và mờ mịt.
Trở về lần này, hành trang mang theo là nỗi nhớ quê, nhớ bé Mây – đứa cháu nhỏ đầu tiên duy nhất; và nhớ cái cảm giác tiếc nuối của một ngày mùa hè cách đây mấy tháng – là cái ngày mà hai anh em chúng tôi may mắn bắt gặp đàn cá Gáy (địa phương tôi gọi là cá Lù) rất lớn và háu mồi; nhưng vì bất ngờ và non kinh nghiệm nên chúng tôi chỉ biết tặc lưỡi vò tai tiếc nuối, bất lực trước sức mạnh của từng con cá mỗi khi kéo lên gần tới mặt nước.
Hồi còn bé, tôi được Cậu gửi cho một hộp đồ nghề câu cá rất đầy đủ, đa dạng và hiện đại từ phương xa về tặng tôi. Thời gian trôi qua từng tháng từng năm, các món đồ nghề ấy cũng dần vơi đi; nhưng có một món đồ mà tôi vẫn còn cất giữ hơn mười năm chưa một lần sử dụng, ấy chính là chiếc máy câu kiểu ngang chính hiệu Abu Garcia sản xuất tại Thụy Điển. Đó là một chiếc máy câu rất hiện đại và thông số cấu hình khá mạnh so với sức vóc của tôi vào thời điểm đó. Mặt khác lúc ấy người dân câu quê tôi chủ yếu là câu ven các ghềnh đá dọc bờ biển; còn nghề nuôi trồng thủy sản bằng lồng bè chưa phát triển rầm rộ như bây giờ… cho nên chiếc máy câu Abu Garcia 6000 kiểu ngang trở nên dư thừa vì “không có đất dụng võ”. Vậy chuyến trở về lần này chính là lúc tôi đem chiếc máy câu ấy ra sử dụng lần đầu tiên sau thời gian dài hơn mười năm ngủ quên trong hộp.
Người em họ đội mưa lái thuyền rẽ sóng chở tôi và Minh – người em hàng xóm thường đồng hành cùng tôi những năm gần đây, ra khu lồng bè nuôi trồng thủy hải sản của gia đình Dì tôi. Buổi sáng sớm thường là thời gian mà xuồng ghe qua lại tấp nập nhưng hôm nay không khí thật yên ắng. Từ trên thuyền phóng tầm mắt ra xung quanh vùng biển vịnh Xuân Đài, cảm quan thị giác chỉ là một màu xám xịt u ám cùng lơ thơ tiếng máy nổ giòn từ xa vọng lại dội lên các vách núi rồi vang loang ra khắp mặt biển chẳng biết âm thanh ấy đến từ hướng nào.
Buông cần cũng lâu mà cả tôi và Minh vẫn chưa được con cá nào đáng kể. Thôi đành tự nhủ với lòng bằng niềm tin bất diệt: “ráng đợi tí nữa biết đâu cá sẽ ăn mồi”. Thế rồi cá vẫn chưa ăn mà những người em họ đã vội giục chúng tôi về bờ. . .
Có lẽ nào đã cất công về đây, chuẩn bị đồ đạc chu đáo thế này và vượt qua trở ngại thời tiết để ra tới đây rồi mà lại chịu quay về trắng tay như thế! Lòng thầm trách những người em họ rằng tại sao bữa nay tụi nó nghỉ sớm vậy; lúc đó tôi nào có biết đâu vì các em ấy hiểu rằng nếu càng về chiều, sóng gió càng nổi mạnh lên thì chiếc thuyền này không đủ khả năng vượt sóng. Vậy rồi tôi bàn với Minh: “Hay là anh em mình cứ câu tới chiều cho đã rồi hẳn tính…”
Người em họ dặn dò kỹ lưỡng từng thứ, nào là chỗ để đồ ăn thức uống, chăn màn… rồi nhanh chóng nổ máy lái thuyền về bờ dù bấy giờ vẫn còn đang buổi sáng.
Sau nhiều giờ miệt mài quăng câu và mỏi mòn chờ đợi mà vẫn chưa thấy tín hiệu khả quan, bỗng một cú cắn đầu tiên khá mạnh. Vừa mừng, vừa hồi hộp nhưng cũng cần giữ bình tĩnh để thu phục con cá, tránh trường hợp nó chạy luồn vào các nơi nhiều chướng vật mà xổng mất. Thật may sao, dù lần đầu sử dụng chiếc máy ngang Abu Garcia 6000 với nhiều bỡ ngỡ, con cá đã bị tôi khuất phục; và đó cũng là con cá Bè đầu tiên trong đời đi câu của tôi.

Sự mệt nhọc của một ngày lênh đênh gần như tan biến vì tự hào, và niềm tin về việc cá sẽ tiếp tục ăn mạnh khiến hai người chúng tôi vui vẻ hẳn lên, quên đi cái gió mưa lạnh lẽo. Thế nhưng niềm hân hoan ấy cũng chẳng thể kéo dài được bao lâu vì thời tiết trở nên cực đoan một cách nhanh chóng. Nếu là một ngày mùa hè thì việc đi nhờ một chiếc thuyền nào đó để về nhà là việc thật đơn giản. Nhưng hôm nay thỉnh thoảng mới nghe được tiếng máy thuyền từ xa xăm vọng lại giữa vùng biển trời thấp đẫm, bao la. Tôi nói với Minh: “Anh không sợ chết. Và chúng ta cũng chẳng thể chết vì ở đây đủ an toàn. Nhưng anh không muốn lãng phí thời giờ nếu như chúng ta cứ mãi ở đây và trải qua một đêm thật tẻ nhạt.” Thế rồi tôi và Minh bàn cách trở về bờ.
Sau một hồi phân tích tìm kiếm sự trợ giúp, vì không muốn phiền hà nên cuối cùng hai chúng tôi quyết định nhờ một anh ngư dân ở làng bên; đó là anh ngư dân chính hiệu nhưng gần đây theo xu hướng thì anh ấy có mở thêm dịch vụ chở khách tham quan cũng như câu cá khu vực Vịnh Xuân Đài. Câu đầu tiên khi kết nối được điện thoại, anh ấy trách chúng tôi bằng câu nói đậm chất xứ Nẫu: “Chơ trời này mà tụi bay làm gì ở quảy…” rồi anh tức tốc lái thuyền đi tìm chúng tôi.
Niềm vui mừng vì sắp được ứng cứu của hai chúng tôi cũng chẳng được lâu thì nỗi lo lắng ập đến khi mà cả tôi và Minh đều không biết làm sao để diễn tả mình đang đứng ở đâu. Bây giờ tôi mới thấm thía câu nói của chính người dân nơi đây: “lồng bè dày đặc đến mức ghe thuyền không có lối chạy”. Dĩ nhiên đó chỉ là câu nói trào phúng. Vấn đề bây giờ là nhìn đâu đâu cũng thấy lồng bè, mà khu bè nào nhìn cũng hao hao giống nhau, chẳng biết phân biệt ra làm sao. Chúng tôi chỉ có duy nhất một thông tin đáng giá rằng khu bè của Dì tôi tên Vân, còn người con của Dì tên Toàn khoảng 40 tuổi và nằm trước “mũi hòn Tranh”. Trong tiếng gió rít cùng tiếng máy thuyền ầm ĩ, anh ngư dân như hét lên trong điện thoại: “bè thằng Toàn dì Vân có gần bè ông X, ông Y, thằng Z… hay không?” Như muốn chết lặng vì anh em chúng tôi nào biết những người ấy; còn “mũi hòn Tranh” là một mũi rừng khá lớn chứ có phải như cái ngã ba ngã tư trên đất liền hay trên mặt sông đâu. Nói rồi anh ngư dân căn dặn: “Giờ tao chạy khắp mũi hòn Tranh, tụi bay mà thấy chiếc ghe có cái đèn chớp chớp màu đỏ thì tụi bay vẫy tay cho tao biết nghe chưa”. Chúng tôi cảm thấy mình thật có lỗi vì đã làm phiền anh, và cảm giác hồi hộp, lo lắng mỗi lúc một lấn át cả tâm trí bởi vì sao lâu quá rồi mà chúng tôi vẫn chưa thấy bất cứ một chiếc thuyền nào chạy gần qua đây.

Thế rồi việc gì cần đến cũng đến. Từ xa xa, chiếc thuyền có cái cột đèn chớp chớp màu đỏ bẻ lái xoay mũi tiến về hướng chúng tôi. Cả tôi và Minh đều vỡ òa mừng rỡ. Riêng tôi, tôi bỗng nhớ về bộ phim truyền hình “Trực thăng Cứu hộ” mà tôi rất thích khi còn nhỏ; và tự ví câu chuyện của mình, trường hợp của mình cũng ly kỳ như các câu chuyện trong bộ phim ấy.
Ngay khi tiếp cận được hai anh em chúng tôi, anh ngư dân liền nói lớn như hờn trách: “Sao hồi nãy tao cũng chạy qua cái luồng đó mà tụi bay không vẫy vô.” Chúng tôi vui vẻ trả lời: “Dạ lúc nãy tụi em tìm mọi cách ra hiệu mà anh không thấy đó, gọi điện thoại thì anh không bắt máy.” Bằng chất giọng địa phương đặc sệt, anh ngư dân vui vẻ đáp: “Tụi bay thông cảm, mưa gió quá tao không thấy. Tao chạy hết ga lấy đâu mà nghe. Thâu lên nhanh rầu dìa chơ gió.” Thuyền anh chở chúng tôi băng băng rời khỏi khu vực lồng bè nuôi trồng thủy sản của Dì tôi trước mũi hòn Tranh; đó là một chiếc thuyền nhỏ không có mái che và chạy rất nhanh. Đến khi thuyền đã ra khỏi hẳn khu vực nuôi trồng thủy hải sản – là khu vực “kín gió” vì được bao bọc bởi các rặng núi, thì sóng gió mỗi lúc càng mạnh lên.
Đã nhiều lần ra khơi nhưng tôi chưa bao giờ đi giữa sóng to gió lớn bằng con thuyền mong manh như thế này. Tôi thầm hỏi rằng liệu con thuyền có chịu nổi sức mạnh của những đợt sóng cao chừng bốn (năm) mét cứ liên hồi dồn dập bủa vây. Nhưng thôi cứ đặt niềm tin vào anh ngư dân thứ thiệt; mặc cho sóng biển cùng nước mưa cứ hất vào mặt, vào thuyền. Anh em chúng tôi cứ tận hưởng cái cảm giác phấn khích này đi đã.
Vịnh Xuân Đài, Phú Yên mùa Đông năm 2020.